Mã số 38: QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 57/2013/DS-GĐT

12:01:00 03/01/2010

Quyết định giám đốc thẩm số 57/2013/DS-GĐT ngày 29/05/2013 về vụ án dân sự tranh chấp chia tài sản chung giữa nguyên đơn cụ Trần Văn Thiêm và bị đơn anh Trần Đức Vinh

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

Ngày 29/5/2013, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm, xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp chia tài sản chung” giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Cụ Trần Văn Thiêm sinh năm 1937;

2. Cụ Nguyễn Thị Mỹ sinh năm 1941.

Cụ Thiêm và cụ Mỹ cùng trú tại 325 West Godfrey Avenue, Philadelphia, PA19120, USA và ủy quyền cho con là ông Trần Đức Hiền, trú tại 78/2G, ấp Võ Dõng 2, xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (giấy ủy quyền ngày 27/10/2008)

Bị đơn: Anh Trần Đức Vinh sinh năm 1989; trú tại 85/2E, ấp Võ Dõng 1, xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Cụ Nguyễn Văn Tịnh sinh năm 1934;

2. Cụ Vũ Thị Thơm sinh năm 1935

Cụ Tịnh và cụ Thơm cùng trú tại 183/1, ấp Dốc Mơ 1, xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 22/12/2008 và quả trình tố tụng, nguyên đơn là cụ Trần Văn Thiêm và cụ Nguvễn Thị Mỹ (do ông Trần Đức Hiền đại diện theo ủy quyền) trình bày:

Vợ chồng cụ Trần Văn Thiêm và cụ Nguyễn Thị Mỹ có 03 người con chung là: ông Trần Đức Hiền, bà Trần Thị Thúy Hương (có chồng là ông Nguyễn Phi Hùng) và ông Trần Đức Thái (có vợ là bà Nguyễn Thị Hồng và con là anh Trần Đức Vinh).

Khoảng năm 1995 - 1996, ông Thái, ông Trần Phi Hùng và bà Nguyễn Thị Duyên chung nhau mua hóa giá căn nhà số 85/2E, ấp Võ Dõng 1, xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai của Hợp tác xã Gia Kiệm, mỗi người được sở hữu 1/3 căn nhà. Do gia đình ông Thái chưa có nhà ở, nên ông Hùng, bà Duyên đồng ý cho gia đình ông Thái quản lý, sử dụng nhà.

Năm 1999, do cụ Thiêm, cụ Mỹ định cư tại Mỹ và có ý định hồi hương về Việt Nam, nên hai cụ đã mua lại phần sở hữu 2/3 căn nhà nêu trên của ông Hùng và bà Duyên với giá là 80 lượng vàng, việc mua bán đã xong, hai cụ đã trả đủ vàng cho bên bán, nhưng do tintưởng nên không viết biên nhận.

Tháng 9/1999, ông Thái chết do tai nạn giao thông, hai cụ đồng ý để bà Nguyễn Thị Hồng (vợ của ông Thái và đang quản lý nhà) đứng tên làm thủ tục đăng ký, kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tháng 8/2007, bà Hồng cũng chết do tai nạn giao thông, anh Trần Đức Vinh (con của ông Thái, bà Hồng) tiếp tục quản lý nhà đất trên.

Ngày 25/2/2008, bà Nguyễn Thị Duyên viết giấy xác nhận bán phần nhà của bà cho cụ Mỹ với nội dung: “năm 1996, chúng tôi có chung nhau mua một căn nhà của Hợp tác xã...3 người mua chung là 1. Nguyễn Thị Duyên; 2. Trần Phi Hùng; 3. Trần Đức Thái. Sau khi mua xong chúng tôi nhất trí để ông Thái đứng tên sổ đỏ. Đến tháng 06/1996 tôi Nguyễn Thị Duyên có bán phần sở hữu 1/3 căn nhà của mình cho bà Nguyễn Thị Mỹ với 40 lượng vàng SJC và tôi đã nhận đủ”.

Ngày 03/4/2008, ông Trần Phi Hùng (con rể của hai cụ) cũng viết giấy xác nhận bán phần nhà của ông cho cụ Mỹ có nội dung tương tự như giấy do bà Duyên viết (nêu trên).

Ngày 28/02/2008, anh Vinh và hai cụ ký giấy xác nhận là hai cụ và ông Thái, bà Hồng mua chung căn nhà nêu trên đồng thời thỏa thuận phân chia nhà, theo đó, anh Vinh được sở hữu 1/3 căn nhà (phần của ông Thái để lại), 2/3 thuộc sở hữu của các cụ (giấy phân chia có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã Gia Kiệm).

Do các cụ có nhu cầu sử dụng nhà đất, nên yêu cầu anh Vinh trả lại cho các cụ 2/3 căn nhà nêu trên và hai cụ không có yêu cầu đối với số tiền đã gửi về để bà Hồng sửa chữa nhà.

Bị đơn là anh Trần Đức Vinh trình bày:

Nguồn gốc căn nhà số 85/2E ấp Võ Dõng 1, xã Gia Kiệm của ông Trần Đức Thái (cha của anh), ông Trần Phi Hùng và bà Nguyễn Thị Duyên mua chung đúng như nguyên đơn trình bày.

Năm 1999, ông Thái chết, ngày 30/5/2000 bà Hồng (mẹ của anh) đã mua lại phần nhà của ông Hùng và bà Duyên. Bà Duyên và bà Trần Thị Thúy Hương (vợ của ông Hùng) có viết giấy thừa nhận vào. ngày 30/5/2000 mỗi người đã nhận của bà Hồng là 40 lượng vàng để nhượng lại phần sở hữu nhà của họ cho bà Hồng.

Tuy ngày 28/2/2008, anh có ký giấy thỏa thuận phân chia tài sản là nhà đất nêu trên, nhưng lúc đó do quá đau buồn vì mẹ anh mới chết, đồng thời các cô chú nói anh ký vào giấy xác nhận thì được ông bà nội sẽ đưa anh sang Mỹ, nên anh mới ký; còn nội dung giấy thì anh không quan tâm; địa điểm ký giấy tại trường anh đang học ở thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải ký tại Uỷ ban nhân dân xã.

Vì nhà đất trên là tài sản của cha mẹ, nên anh không đồng ý với yêu cầu của cụ Thiêm, cụ Mỹ

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Văn Tịnh và cụ Vũ Thị Thơm (ông bà ngoại của anh Vinh) trình bày:

Nhà tranh chấp do vợ chồng bà Hồng và ông Thái mua chung với ông Hùng và bà Duyên. Sau khi ông Thái chết thì bà Hồng đã mua lại phần sở hữu nhà của bà Duyên và ông Hùng. Do đó, nhà đất là của ông Thái, bà Hồng, do ông Thái, bà Hồng đã chết nên anh Vinh có quyền sở hữu nhà

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2009/DSST ngày 30/6/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Trần Văn Thiêm, cụ Nguyễn Thị Mỹ. Buộc anh Trần Đức Vinh thanh toán cho cụ Thiêm, cụ Mỹ sổ tiền là3.624.666.500 đồng.

Anh Vinh được quyền sở hữu 2/3 căn nhà 85/2E; giao 1/3 căn nhà còn lại anh Vinh tạm thời quản lý, sử dụng.

Ngoài ra, Tòa án còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 07/7/2009, anh Trần Đức Vinh có đơn kháng cáo với nội dung: trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh có xuất trình giấy xác nhận của bà Trần Thị Thúy Hương và bà Nguyễn Thị Duyên đã nhận vàng của bà Hồng (mẹ của anh) để chứng minh bà Hồng đã mua lại quyền sở hữu nhà của ông Hùng và bà Duyên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của anh.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 326/2009/DSPT ngày 15/10/2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định chấp nhận kháng cáo của anh Trần Đức Vinh, sửa bản án sơ thẩm như sau:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Trần Văn Thiêm, cụ Nguyễn Thị Mỹ yêu cầu được sở hữu 2/3 căn nhà sổ 85/2E ấp Võ Dõng I, xã Gia Kiệm, huyện Thổng Nhất, tinh Đồng Nai.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Ngày 05/11/2009, ông Trần Đức Hiền (đại diện theo ủy quyền của cụ Thiêm, cụ Mỹ) có đơn khiếu nại với nội dung: thực tế có việc cụ Thiêm, cụ Mỹ mua 2/3 căn nhà nhưng Tòa án cấp phúc thẩm bác đơn khiếu nại của cụ Thiêm và cụ Mỹ là sai.

Tại Quyết định số 130/QĐ-KNGDT-V5 ngày 27/9/2011, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án bản án dân sự phúc thẩm số 326/2009/DSPT ngày 15/10/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên,giữ nguyên Bản bán dân sự sơ thẩm số 03/2009/DSST ngày 30/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhưng theo hướng hủy bản án dân sự phúc thẩm số 326/2009/DSPT ngày 15/10/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2009/DSST ngày 30/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì nguồn gốc căn nhà số 85/2E ấp Võ Dõng 1, xã Gia Kiệm là do ông Thái, ông Hùng và bà Duyên chung mua (mỗi người sở hữu 1/3) của Hợp tác xã Gia Kiệm. Sau đó ông Hùng, bà Duyên đồng ý để vợ chồng ông Thái, bà Hồng quản lý, sử dụng. Sau khi ông Thái chết năm 1999 và bà Hồng chết năm 2007 thì anh Vinh là người quản lý, sử dụng nhà.

Cụ Thiêm, cụ Mỹ khởi kiện cho rằng hai cụ đã mua phần nhà thuộc quyền sở hữu của ông Hùng và bà Duyên vào năm 1999 nhưng hai cụ đồng ý để bà Hồng đứng tên kê khai, sử dụng nay các cụ có nhu cầu sử dụng nên yêu cầu anh Vinh trả lại phần sở hữu của hai cụ. Để chứng minh cho yêu cầu của mình thì cụ Thiêm, cụ Mỹ xuất trình giấy xác nhận của bà Duyên ngày 25/02/2008 và ông Hùng ngày 03/4/2008 có nội dung bà Duyên, ông Hùng đã bán phần sở hữu nhà của mình cho cụ Mỹ vào tháng 6/1999 và mỗi người đã nhận đủ 40 lượng vàng do cụ Mỹ giao; đồng thời xuất trình tờ thỏa thuận phân chia nhà giữa anh Vinh với hai cụ ngày 28/02/2008 có nội dung thỏa thuận phân chia căn nhà làm 03 phần, trong đó anh Vinh được sở hữu 01 phần, hai cụ được sở hữu 02 phần.

Trong khi đó, anh Vinh thì cho rằng bà Hồng (mẹ của anh Vinh) mua lại phần sở hữu của ông Hùng, bà Duyên nên không đồng ý với yêu cầu của cụ Thiêm, cụ Mỹ. Đồng thời anh Vinh có xuất trình các giấy xác nhận không đề ngày của bà Duyên và bà Hương (vợ của ông Hùng) có nội dung ngày 30/5/2000 mỗi người đã nhận của bà Hồng 40 lượng vàng để bán phần sở hữu nhà của mình cho bà Hồng.

Xem xét các giấy xác nhận của ông Hùng, bà Duyên và bà Hương thì thấy rằng các giấy này có nội dung mâu thuẫn về việc bán phần sở hữu nhà và đều là xác nhận sau khi đã bán nhà, đồng thời không ai xuất trình được hợp đồng mua bán. Tòa án chưa tiến hành đối chất giữa các đương sự và những người làm chứng để làm rõ những mâu thuẫn trên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm công nhận các giấy xác nhận của bà Duyên, ông Hùng xác định cụ Mỹ mua nhà, còn Tòa án cấp phúc thẩm lại không công nhận các giấy xác nhận nêu trên đều là chưa đủ căn cứ.

Đối với tờ thỏa thuận phân chia nhà ngày 28/02/2008, tuy anh Vinh thừa nhận có ký nhưng cho rằng lúc đó do quá đau buồn vì mẹ anh mới chết, đồng thời các cô chú của anh nêu nếu ký vào giấy xác nhận thì được ông bà đưa sang Mỹ, nên anh mới ký, khi ký là tại trường anh đang học ở thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải ký tại Uỷ ban nhân dân xã Gia Kiệm. Nhưng Tòa án các cấp chưa xác minh làm rõ nội dung anh Vinh trình bày có đúng hay không để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Ngoài ra, tại hồ sơ vụ án có các lá thư của ông Thái, bà Hồng và anh Vinh gửi cho hai cụ (ở Mỹ) có nội dung vợ chồng ông Thái, bà Hồng gặp khó khăn, không có tiền mua phần nhà ông Hùng bán mà phải nhờ cha mẹ hỏi vay mượn tiền. Trong đó, thư ngày 18/4/2000, bà Hồng xin ý kiến của hai cụ về việc xác định người đứng tên nhà (Ba má nhất trí ai thì Ba má quyết định để con làm giấy tờ cho tiện);đồng thời còn nói vợ chồng bà Hồng nợ tiền của “anh chị Thái và em Phương”.

Trong trường hợp này, cần xác minh làm rõ các vấn đề mà các bức thư của ông Thái, bà Hồng và anh Vinh đã nêu. Làm rõ việc bà Duyên và bà Hương xác nhận bán nhà cho bà Hồng để bà Hồng hợp thức hóa nhà đất có đúng không? cần thu thập hồ sơ kê khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cho bà Hồng; xác định ai là người trả vàng cho bà Duyên và ông Hùng; nếu bà Hồng trả thì nguồn gốc của số vàng đó do đâu mà có? Đồng thời cần xác minh lấy ý kiến của “anh chị Thái và em Phương” để xác định có hay không việc bà Hồng vay tiền và ai là người trả khoản nợ này cho “anh chị Thái và em Phương”. Nếu có căn cứ xác định cụ Thiêm, cụ Mỹ gửi tiền về để nhờ bà Hồng, ông Thái mua nhà đất thì cần định giá nhà đất trên cơ sở đó buộc các đồng thừa kế của bà Hồng, ông Thái trả lại số tiền hai cụ đã gửi về để mua nhà, phần chênh lệch (nếu có) thì chia theo công sức của các đương sự. Nếu có căn cứ xác định cụ Thiêm, cụ Mỹ cho ông Thái, bà Hồng vay tiền để mua nhà thì chỉ buộc những đồng thừa kế của ông Thái, bà Hồng trả lại số tiền mà bà Hồng, ông Thái đã vay. Đối với phần tài sản của bà Hồng (chết năm 2007), ông Thái (chết năm 1999) thì cần xác định là di sản thừa kế của ông Thái, bà Hồng để chia thừa kế theo pháp luật nếu các đương sự có yêu cầu mới đúng.

Tòa án các cấp chưa xác minh làm rõ những vấn đề nêu trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định cụ Thiêm, cụ Mỹ mua phần sở hữu 2/3 căn nhà, từ đó buộc anh Vinh thanh toán giá trị phần sở hữu nhà của cụ Thiêm, cụ Mỹ, 1/3 căn nhà còn lại giao anh Vinh tạm thời quản lý; còn Tòa án cấp phúc thẩm lại bác yêu cầu của cụ Thiêm, cụ Mỹ đều chưa đủ căn cứ.

Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội).

QUYẾT ĐỊNH:

1. Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 326/2009/DSPT ngày 15/10/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2009/DSST ngày 30/6/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về vụ án “Tranh chấp chia tài sản chung” giữa nguyên đơn là cụ Trần Văn Thiêm và cụ Nguyễn Thị Mỹ với bị đơn là anh Trần Đức Vinh.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/545500/3377352

 

 

Đang xử lý...

.