Mã số 41: Quyết định giám đốc thẩm số 53/2013/DS-GĐT

12:01:00 08/01/2010

Quyết định giám đốc thẩm số 53/2013/DS-GĐT ngày 27 tháng 5 năm 2013 về vụ án dân sự Tranh chấp quyết định sử dụng đất giữa nguyên đơn bà Trần Thị Tuyết Minh và bị đơn bà Trần Thị Kiều Lan

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

Ngày 27 tháng 5 năm 2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương

Nguyên đơn:

1.      Bà Trần Thị Tuyết Minh sinh năm 1954;

2.      Ông Nguyễn Công Tâm (là chồng của bà Minh);

Bà Minh và ông Tâm cùng trú tại nhà số 262, tổ 5, phường Trần Phú, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang.

Bị đơn:

1.      Bà Trần Thị Kiều Lan sinh năm 1960 (là em một của bà Minh);

2.      Ông Đinh Xuân Lương sinh năm 1955 (là chồng của bà Lan);

Bà Lan và ông Lương cùng trú tại nhà số 268, tổ 5, phường Trần Phú, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thi Lệ Thành năm 1956 (là em ruột của bà Minh và chị ruột của bà Lan); trú tại Cộng hòa liên bang bang Đức (địa chỉ Unterstadt 1935423 Liech Germanny).

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện ngày 26/12/2005 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Trần Thị Tuyết Minh và ông Nguyễn Công Tâmtrình bày.

Năm 1981, vợ chồng ông, bà được giao sử dụng 520m2 đất tại tổ 5 (tổ 4 cũ) phường Trần Phú, thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang), tỉnh Hà Giang đến năm 1989 thì Uỷ ban nhân dân thị xã Hà Giang ra quyết định cấp cho vợ chồng bà phần đất trên để làm nhà ở.

Ngày 22/7/1988, vợ chồng ông, bà thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Trần Thị Lệ Thành (là em gái của bà Minh) 63,2m2 đất trong tổng số 520m2 đất được cấp năm 1981 với giá 08 chỉ vàng, hợp đồng không có chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sau khi nhận đất, bà Thành đã xây móng nhà trên đất nhưng vì điều kiện công tác nên bà Thành chuyển về Hà Nội sinh sống và sau đó thì ra nước ngoài (nước Đức). Trong thời gian bà Thành về Hà Nội và đi nước ngoài thì bà Thành có cho vợ chồng bà Trần Thị Kiều Lan (là em ruột của bà Minh và bà Thành), ông Đinh Xuân Lương mượn mảnh đất trên để dựng nhà ở và trông nom đất cho bà Thanh.

Tháng 01/1999, bà Thành về Việt Nam, vợ chồng bà và bà Thành ra Ủy ban nhân dân phường Trần Phú làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nhưng vì bà Thành có quốc tịch nước ngoài nên không hoàn tất được thủ tục. Ngày 13/01/1999, bà Thành viết đơn trả lại vợ chồng bà diện tích đất đã mua đồng thời vợ chồng bà cũng trả lại bà Thành 08 chỉ vàng. Ngày 14/01/1999, Ủy ban nhân dân phường Trần Phú giải quyết công nhận diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của gia đình bà và năm 2000 vợ chồng bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Công Tâm là chồng bà).

Do đó, yêu cầu vợ chồng bà Lan, ông Lương trả lại gia đình bà diện tích đất trên, bồi thường giá trị khai thác sử dụng diện tích đất này từ năm 2000 đến nay và tiền thuế đất mà bà đã nộp từ năm 2000 đến nay.

Bị đơn bà Trần Thị Kiều Lan, ông Đinh Xuân Lương trình bày:

Năm 1988, bà Thành có mua của bà Minh một mảnh đất tại tổ 5 phường Trần Phú, sau khi xây móng nhà trên đất thi bà Thành về Hà Nội sinh sống. Sau đó vài tháng, bà Thành cho vợ chồng bà diện tích đất trên, đồng thời giao cho vợ chồng bà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Thành với bà Minh. Tháng 3/1989, bà Thành đã viết “giấy chứng nhận cho đất” để xác định cho vợ chồng bà phần đất trên, sau đó vợ chồng bà đã xây nhà để ở ổn định cho đến nay. Do đó, ông, bà không chấp nhận yêu cầu của bà Minh, ông Tâm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Lệ Thành trình bày:

Năm 1988, bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng bà Minh quyền sử dụng 63,2m2 đất tại tổ 5, phường Trần Phú, với giá 08 chi vàng. Sau khi nhận đất bà đã xây móng nhà và làm kè đá. Năm 1989, bà cho vợ chồng bà Lan mượn mảnh đất này để làm quán bán hàng, vì là chị em ruột và theo yêu cầu của ông Lương nên bà đã viết giấy xác nhận cho đất và đơn đề nghị chính quyền địa phương giúp đỡ, để vợ chồng bà Lan, ông Lương ở cho hợp lệ.

Năm 1999, bà về Việt Nam để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng dụng đất nêu trên với bà Minh nhưng không được. Ngày 14/01/1999, bà đã viết giấy trả lại vợ chồng bà Minh diện tích đất đã mua và đã nhận đủ tiền. Nay, bà đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà Lan trả đất cho vợ chồng bà Minh. Ngày 30/10/2006, bà Thành đã có đơn xin vắng mặt trong quá trình xét xử vụ án.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2009/DSST ngày 30/9/2009, Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang quyết định:

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết Minh.

Buộc ông Đinh Xuân Lương và bà Trần Thị Kiều Lan phải trả lại diện tích đất 63,2m2 tại tổ 4 (cũ) phường Trần Phú, thị xã Hà Giang cho bà Trần Thị Tuyết Minh và ông Nguyễn Công Tâm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q880993 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang cấp ngày 31/8/2000 mang tên Nguyễn Công TâmPhía Tây giáp đường Trần Phú, phía Nam giáp nhà bà Chính, phía Bắc giáp nhà bà Miến, phía Đông giáp suối nước và tài sản nhà, công trình điện nước theo biên bản ngày 21/5/2009.

Bà Trần Thị Tuyết Minh phải bồi thường cho ông Đinh Xuân Lương giá trị tài sản trên đất là 77 triệu đồng.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí định giá, án phí, trách nhiệm do chậm thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 12/9/2009, ông Đinh Xuân Lương có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 71/2010/DSPT ngày 04/5/2010, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm như sau:

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị Tuyết Minh.

Buộc gia đình vợ chồng ông Đinh Xuân Lương, bà Trần Thị Kiều Lan phải trả lại diện tích 63,2m2 đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 880993 của Ủy ban nhân dân tình Hà Giang cấp ngày 31/8/2000 trên có nhà và công trình điện nước tại tổ 4 (cũ) phường Trần Phú, thị xã Hà Giang, tỉnh Hà Giang cho bà Trần Thị Tuyết Minh và ông Nguyễn Công Tâm.

Buộc bà Trần Thị Tuyết Minh phải bồi thường cho vợ chồng ông Đinh Xuân Lương, bà Trần Thị Kiều Lan giả trị tài sản trên đất là 77.000. 000 đồng

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Đinh Xuân Lương có đơn khiếu nại đề nghị xem xét bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 96/2012/KN - DS ngày 27 tháng 3 năm 2012, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án dân sự phúc thẩm số 71/2010/DS-PT ngày 04/5/2010 của Toà phúc thẳm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 02/2009/DSST ngày 30/9/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật

Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghi Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận một phần kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về phần xem xét đến nhu cầu chỗ ở của bị đơn và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn trong khi bị đơn là người sử dụng đất và trên đất có nhà của bị đơn là chưa đúng quy định của pháp luật về đất đai.

XÉT THẤY:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định 63,2m2 đất tại tổ 5 (tổ 4 cũ) phường Trần Phú, thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang), tỉnh Hà Giang mà vợ chồng bà Trần Thị Kiều Lan, ông Đinh Xuân Lương đang quản lý, sử dụng và hiện đang có tranh chấp, có nguồn gốc của vợ chồng bà Trần Thị Tuyết Minh, ông Đinh Công Tâm chuyển nhượng cho bà Trần Thị Lệ Thành vào ngày 22/7/1988, với giá là 08 chỉ vàng, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Minh, ông Tâm với bà Thành không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, bà Thành xây dựng móng nhà trên đất. Ngày 20/3/1989 bà Thành tặng cho vợ chồng bà Lan, ông Lương diện tích đất nêu trên, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Thành với vợ chồng bà Lan, ông Lương cũng không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Từ khi được bà Thành tặng cho quyền sử dụng đất, vợ chồng bà Lan, ông Lương đã quản lý, sử dụng và xây dựng nhà ở trên đất.

Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Minh với bà Thành ngày 22/7/1988 chưa hoàn thành và sau đó các bên đã thay đổi ý kiến; bà Thành đã viết giấy trả lại vợ chồng bà Minh quyền sử dụng đất, vợ chồng bà Minh đã trả đủ cho bà Thành 08 chỉ vàng.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Minh với bà Thành lập ngày 22/7/1988 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Thành với vợ chồng bà Lan lập ngày 20/3/1989 chưa hợp pháp là có căn cứ.

Tuy nhiên, xem xét thực tế thấy rằng sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng bà Minh, bà Thành đã sử dụng và xây dựng móng nhà, sau đó vợ chồng bà Lan, ông Lương đã xây dựng nhà ở ổn định cho tới khi xảy ra tranh chấp. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm buộc vợ chồng bà Lan, ông Lương trả đất cho vợ chồng bà Minh, ông Tâm nhưng không xem xét đến công sức tôn tạo làm tăng giá trị đất, nhu cầu về nhà ở cho vợ chồng bà Lan, ông Lương, là không đảm bảo quyền lợi cho vợ chồng bà Lan, ông Lương.

Trong trường hợp này, cần công nhận cho vợ chồng bà Lan được sử dụng nhà đất và buộc vợ chồng bà Lan phải trả giá trị quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà Minh sau khi khấu trừ phần công sức thoả đáng cho vợ chồng bà Lan, mới hợp tình, hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65l2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội);

QUYẾT ĐỊNH:

Huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 71/2010/DS-PT ngày 04/5/2010 của Toà phúc thẳm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 02/2009/DSST ngày 30/9/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Tuyết Minh, ông Nguyễn Công Tâm với bị đơn là bà Trần Thị Kiều Lan, ông Đinh Xuân Lương; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Lệ Thành.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/545500/3377352

 

Đang xử lý...

.