Mã số 44: Quyết định giám đốc thẩm số 79/2013/DS-GĐT

12:01:00 08/01/2010

Quyết định giám đốc thẩm số 79/2013/DS-GĐT ngày 28/6/2013 về vụ án dân sự Tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn ông Lê Văn Quý và bị đơn ông Lê Văn Thanh

 

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

Ngày 28-6-2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thấm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp về thừa kê tài sản” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Văn Quý sinh năm 1960; cư trú tại Úc (địa chỉ 6/4Will Rach Mom, Australia); tạm trú tại số 50/38 đường Nguyễn Thượng Hiền, phường 1, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Lê Văn Thanh sinh năm 1957; trú tại số 1C đường Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú tại số 340/2 ấp 6, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Tuyết Vân (vợ của ông Thanh) sinh năm 1958; trú tại số 1C đường Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú tại số 340/2 ấp 6, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện ngày không đề ngày tháng năm (Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chỉ Minh nhận được đơn ngày 26-2-2010) và trong quả trình tổ tụng, ông Lê Vãn Quý trình bày:

Cụ Lê Văn Lý và cụ Nguyễn Thị Út có 02 người con là: ông Lê Văn Thanh và ông (ông Quý). Sau khi lập gia đình, ông và ông Thanh đều ra ở riêng.

Cụ Lý và cụ Út tạo lập được khối tài sản gồm 9.082m2 đất ruộng và 4.121m2 đất thổ vườn (đo thực tế 3.794,3m2) tại 340/2 Bình Mỹ, ấp 6, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Trên đất thổ vườn có căn nhà cấp 4 xây cất từ năm 1975. Ngày 18-9-2000, cụ Lý được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 4.121m2 đất thổ vườn.

Phần đất ruộng thì cụ Lý đã chuyển nhượng cho người khác, số tiền chuyển nhượng đất ông không nhận. Ông Thanh xuất trình giấy cam kết đề ngày 12-12-2001 (có nội dung thể hiện: ông Quý xin cha mẹ chìa trước phần 9.082m2 đất ruộng để bản lẩy tiền trang trảicông nợ; còn phần 4.090m2 đất vườn thì cha mẹ sử dụng để dưỡng già một nửa 2.045m2; ông Thanh một nửa 2.045m2; sau này ông Quý không có ý kiến gì trong việc đất trên nữa. Nếu cha mẹ trăm tuổi già nếu sổ đất frên còn lại là phần hương quả sau này). Tuy nhiên, ông không biết và không ký vào giấy cam kết này; ông yêu cầu giám định chữ viết và chữ ký trên tờ cam kết này (Biên bản hòa giải ngày 10-6-2010). Tại Bản khai ngày 01-12-2010, ông Quý lại khai: giấy cam kết không đúng nội dung ông viết và chữ viết không phải của ông; ông có ký trong giấy cam kết, nhưng lúc đó không biết nội dung giấy đó). Ngày 13-3-2002, cụ Lý chết, không để lại di chúc.

Ngày 26-7-2008, ông sang Úc định cư, nhưng vẫn thường xuyên gửi tiền về cho cụ Út. Tháng 7-2009, ông về thăm cụ Út và cụ Út có nói: nhà đã quá cũ kỹ và mục nát; cụ Út muốn xây lại nhà. Cụ Út có làm đơn xin chính quyền địa phương cho sửa chữa nhà ngày 20-4-2009. Tiền xây nhà của vợ chồng ông Thanh, bà Vân bỏ ra. Sau khi xây nhà, vợ chồng ông Thanh dọn về ở chung với cụ Út. Ngày 07-11-2009, cụ Út chết, không để lậi di chúc. Ông và ông Thanh chi phí ma chay cho cụ Út, nhưng ông không tranh chấp về phần này.

Nay ông khởi kiện và yêu cầu Tòa án chia thừa kế di sản của cha mẹ để lại là ½ diện tích đất thổ vườn và căn nhà trên.

Bị đơn là ông Lê Văn Thanh trinh bày: Cụ Lý và cụ Út tạo lập được một thửa đất vườn 4.121m2, trong đó có căn nhà cấp 4 xây dựng từ năm 1975. Ngoài ra, ông nội của ông có để lại cho cụ Lê Văn Lý 9.082m2 đất mộng tại ấp 6, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

- Đối với phần đất ruộng 9.082m2: Năm 2001, ông Quý đã xin cha mẹ được bán phần đất ruộng này, để lấy tiền trả nợ; đồng thời, ông Quý có viết giấy cam kết đề ngày 12-12-2001 là không tranh chấp hay khiếu nại gì về sau. ông Quý đã bán được 200.000.000đồng (có lúc ông Thanh khai: ông Quý xin cha mẹ chia trước phần đất mộng và nhờ cha mẹ đứng bán dùm vì trong giấy đăng ký quyền sử dụng đất đứng tên cụ Lý).

- Về phần đất thổ vườn 4.090 m2 có căn nhà cấp 4 nói trên: Nhà cấp 4 xây từ năm 1975 đã hư hỏng. Năm 2009, cụ Nguyễn Thị Út đã làm đơn xin chính quyền địa phương cho phép xây dựng lại căn nhà có diện tích 168m2, nhưng tiền xây dựng nhà do vợ chồng ông bỏ ra, trị giá là 800.000.000đồng. Một phần nhà ông để ở, một phần làm nơi thờ cúng. Ngoài ra, ông bỏ tiền chi ma chay cho cụ Út, nhưng ông không yêu cầu thanh toán về chi phí này.

Ông Quý yêu cầu chia phần đất thổ vườn thì ông không đồng ý, vì ông Quý đã được hưởng phần đất ruộng 9.082m2 nói trên với cam kết là không yêu cầu gì nữa đối với phần đất còn lại.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Tuyết Vân (vợ của ông Thanh) trình bày: thống nhất với lời khai của ộng Thanh, không đồng ý với yêu cầu chia thừa kế của ông Quý.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 489/2011/DSST ngày 15-4-2011, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu đòi chia thừa kế của nguyên đơn ông Lê Văn Quý.

- Xác định di sản thừa kế của cụ Lê Văn Lý và cụ Nguyễn Thị Út chết để lại diện tích đất thực tế là 3 794,3m2 loại đất thổ vườn, thuộc một phần thửa 138 và rạch thuộc tờ bản đồ sổ 44...Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ 57828 ngày 18-9-2000 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp. Phần di sản này được chia cho ông Lê Văn Thanh và Lê Văn Quý mỗi bên ½ diện tích đất là 1.887,1m2.

- Xác định phần vật liệu xây dựng căn nhà số 340/2 ấp Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phổ Hồ Chí Minh, diện tích 164m2, là tiền của ông Lê Văn Thanh và bà Nguyễn Thị Tuyết Vân.

- Ông Lê Văn Thanh được chia thừa kế 1.887,1m2 đất vườn và đất thổ cư (trên đất có căn nhà số 340/2 ấp Bĩnh Mỹ, huyện Củ Chi, nằm phía bên trái khu đất hướng ra đường đất).

- Ông Lê Văn Quý được chia thừa kế 1.887,1m2 đất vườn nằm phía bên phải khu đất hướng ra đường đất...

Ông Thanh và bà Vân phải giao ngay diện tích đất trên cho ông Quý hưởng sử dụng, tính kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, thi hành dưới sự giám sát của Cục Thỉ hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 25-4-2011, ông Thanh có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm trên và đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 211/2011/DSPT ngày 19-8-2011, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 489/2011/DSST ngày 15-4-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, như sau:

Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Lê Vãn Quý về việc yêu cầu ông Lê Văn Thanh phải chia thừa kế di sản của cụ Lê Văn Lý và cụ Nguyễn Thị ủt là phần đất cỏ diện tích là 4.121m2 (đo đạc thực tế là 3.794,3m2), thửa 484 và 507 tờ bản đồ số 17, tại ấp 6, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phổ Hồ Chí Minh (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 20/QSDĐ ngày 18-9-2000 của Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi).

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Ngày 09-10-2011, ông Quý có đơn khiếu nại; yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm vì cho rằng “giấy cam kết” đề ngày 12-12-2001, ông Thanh đã giả chữ ký của cụ Lý và cụ Út, giả cả nội dung của “giấy cam kết”.

Tại Quyết định kháng nghị số 52/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 08-6-2012, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 211/2011/DSPT ngày 19-8-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 489/2011/DSST ngày 15-4-2011 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XÉT THẢY:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện cụ Lê Văn Lý và cụ Nguyễn Thị Út có 02 người con chung là ông Lê Văn Thanh và ông Lê Văn Quý. Ngày 13-3-2002, cụ Lý chết, không để, lại di chúc.

Về tài sản: Hai cụ tạo lập được khối tài sản gồm 9.082m2 đất ruộng và 4.121m2 đất thổ vườn (đo thực tế 3.794,3m2) tại 340/2 Bình Mỹ, ấp 6, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 18-9-2000, cụ Lý được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất thổ vườn. Trên đất thổ vườn có căn nhà cấp 4, lợp ngói, vách ván xây dựng từ năm 1975. Năm 2009, do nhà cũ, mục nát nên vợ chồng ông Thanh, bà Vân đã bỏ tiền ra xây dựng lại nhà mới như hiện nay. Sau khi xây nhà, vợ chồng ông Thanh dọn về ở chung với cụ Út. Ngày 07-1-2009, cụ Út chết, không để lại di chúc.

Nguyên đơn là ông Lê Văn Quý khởi kiện yêu cầu Tòa án chia thừa kế di sản của 02 cụ để lại là ½ diện tích đất thổ vườn và căn nhà hiện vợ chồng ông Thanh đang quản lý, sử dụng.

Bị đơn là ông Lê Văn Thanh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Quý.

Thấy rằng, đối với phần đất ruộng 9.082m2: ông Thanh xác định năm 2001, cụ Lý và cụ Út đã chuyển nhượng phần đất này cho người khác và số tiền chuyển nhượng đất thi ông Quý đã nhận tiền; đồng thời ông Quý có ký “giấy cam kết” không tranh chấp phần đất thổ vườn. Khi hai cụ còn sống, ông Quý không có ý kiến gì về việc chưa nhận tiền bán đất ruộng. Vì vậy, có cơ sở xác định ông Quý đã được nhận tiền bán đất ruộng nêu trên.

Đối với phần đất thổ vườn: Theo “giấy cam kết” ngày 12-12-2001 có nội dung thể hiện: “Hiện nay tôi Lê Văn Quý là con Út làm nhà cỏ thiếu hụt, nay theo nguyện vọng xin cha mẹ chấp thuận chia trước phần 9.082m2 đất ruộng để bản lấy tiền trang trải công nợ, vậy mong cha mẹ cho con được hưởng phần tiền trên. Còn lại phần đất khô 4.090m2 đất vườn sống trọn quyền sử dụng dưỡng già một nửa 2045m2 và anh con một nửa bằng 2045m2. Sau này con không có ý kiến gì trong việc đất trên nữa. Nếu cha mẹ trăm tuổi già nếu sổ đất trên còn lại là phần hương quả sau này”, giấy có chữ ký đề tên vợ chồng ông Quý và 02 cụ (cụ Lý và cụ Út); có xác nhận của ông Nguyễn Văn Nhân (Trưởng ấp 6B). Theo lời khai của ông Nguyễn Văn Nhân thì ông khẳng định ông Quý có làm “giấy cam kết” trước mặt ông và nhờ ông ký xác nhận vào “giấy cam kết”. Tại biên bản hòa giải ngày 10-6-2010, ông Quý khai “giấy cam kết” ông không biết, không ký và yêu cầu Tòa án tiến hành giám định chữ viết, chữ ký trên “giấy cam kết”. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông Quý thừa nhận có viết “giấy cam kết”. Tòa án cấp phúc thẩm xác định “giấy cam kết” do ông Quý viết mà không tiến hành trưng cầu giám định chữ ký của cụ Lý và cụ Út là chưa đủ căn cứ. Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Quý có đơn khiếu nại cho rằng “giấy cam kết” trên ông Thanh đã giả mạo chữ ký của cụ Lý và cụ Út. Do đó, cần phải tiến hành trưng cậu giám định chữ ký của cụ Lý và cụ Út tại “giấy cam kết” trên. Trường hợp, clíữ ký tại “giấy cam kết” đúng là của cụ Lý và cụ Út thì cần phải chấp nhận ý chí tự nguyện của 02 cụ tại “giấy cam kết”, theo đó ông Thanh được quyền quản lý, sử dụng ½  diện tích đất trên; ½ diện tích đất thổ vườn còn lại được sử dụng làm đất hương hỏa. Trường hợp, chữ ký tại “giấy cam kết” không phải là của cụ Lý và cụ Út thì phải tính giá trị phần đất ruộng 9.082m2 mà ông Quý đã nhận tiền để xác định xem có tương đương với phần đất ông Thanh đang quản lý hay không; từ đó, tính chênh lệch phần đất của mỗi người được hưởng theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYỂT ĐỊNH:

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 52/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 08-6- 2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án dân sự phúc thẩm số 211/2011/DSPT ngày 19-8-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Lê Yăn Quý với bị đơn là ông Lê Văn Thanh; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Tuỵết Vân.

2. Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc tham số 211/2011/DSPT ngày 19-8-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 489/2011/DSST ngày 15-4-2011 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là ông Lê Văn Quý với bị đơn là ông Lê Văn Thanh; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Tuyết Vân.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/545500/3377352

 

Đang xử lý...

.