Bản án số 03/2018/KDTM-PT ngày 21/06/2018 của TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tranh chấp hợp đồng dịch vụ

04:07:00 05/07/2018

QUYẾT ĐỊNH SỐ 03/2018/KDTM-PT NGÀY 21/06/2018 VỀ VỤ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ -TRANH CHẤP VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ

 

TÓA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA- VŨNG TÀU

      Ngày 21 tháng 06 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu xét xử phúc  thẩm  công  khai  vụ  án  kinh  doanh  thương  mại  thụ  lý  số  05/2018/TLPT-KDTM  ngày 07-03-2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ ; Do Bản án số 02/2018/KDTM-ST ngày 18-01-2018 của Tòa án nhân dân huyện Tbị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 09/2018/QĐ-PT ngày  15-5-2018, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 14/2018/QĐ –PT ngày 30-5-2018, Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 14/2018/QĐTĐ ngày 20-6-2018 giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơn: Công ty TX(tên cũ: Công ty T);

Địa chỉ: Ấp P, xã M, huyện T, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu;

Người đại diện theo pháp luật:Ông Đặng Tùng L, sinh năm 1976-Giám đốc (vắngmặt);

Người đại diện hợp pháp:Ông Thái Văn M, sinh năm 1973–là đại diện theo ủy quyền, giấy ủy quyền số 428 công chứng ngày 13-6-2018;

Địa chỉ hiện nay: 09 Ngô Quyền, thị trấn Ng, huyện C, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu (cómặt).

  1. Bị đơn: Công ty B

Địa chỉ: Khu công nghiệp M–Tiến Hùng, xãM, huyện T, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu;

Người đại diệntheo pháp luật:ÔngSongMyoungKeon-Tổng giám đốc(vắngmặt);

Người đại diện hợp pháp: ÔngHồ Trung L1, sinh năm 1977là đại diện theo ủy quyền, giấy ủy quyền số06-17/CJSC -UQ ngày 30-5-2018của Công ty B; (cómặt).

  1. Người làm chứng:
    1. Ông Trương Văn H, sinh năm 1992-nhân viên Công ty dịch vụ bảo vệ Long H–VN;

Địa chỉ: ấp B, xãChâuPha, huyện T, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu (cómặt).

  1. Bà Nguyễn Thị Anh Đào, sinh năm 1990-nhân viên Phòng khám đa khoa Mỹ Xuân;

Địa chỉấp Bến Đình, xã M, huyện T, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu; (cómặt).

Người kháng cáo:Công ty TXlà nguyên đơn

 

Nội dung vụ án:

     Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Công  ty TX(gọi tắt là TX) thông qua người đại diện trình bày:

     Công  ty  TX và Công ty B(gọi tắt là Công ty B1) ký kết hợp đồng dịch vụ nấu ăn số 01/2015/HĐNA-CJ-SC,ngày 01-4-2015. Theo đó, Công ty TXtự trang bị các thiết bị cần thiết tại căng tin trong nhà máy Công ty B1để nấu ăn phục vụ cho nhân viên của Công ty B1, đơn giá 25.000đcho 1 suất ăn chưa bao gồm thuế VAT; Thời hạn hợp đồng từ ngày 01-4-2015 đến ngày 01-4-2018.

     Sau khi ký hợp đồng, Công ty TXđã lắp đặt trang thiết bị, đưa nhân viên của Công ty vào nấu ăn cho nhân viên của Công  ty B1cho đến ngày 31-12-2016thì

      Công ty B1đã tự ý cho rằng Công ty TX thực hiện không đúng hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng không trao đổi trước vớiCông ty TX. Công  ty B1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật nênCông  ty TX yêu cầu Tòa án buộc Công ty B1 bồi thường:

  1. Tổn thất về đầu tư thiết bị như: chảo, bồn rửa, bàn tiếp liệu, tô, tủ hâm đồ, xe đẩy đồ, khay đựng cơm.... với số tiền là 180.000.000đ;
  2. Lợi nhuận 16 tháng còn lại của hợp đồng (từ ngày 01-12-2016 đến ngày 01-4-2018) với số tiền là:15.000.000 đồngx16 tháng =240.000.000 đồng. 
  3.  Chi phí di dời: 7.500.000 đồng

Tổng cộng: 427.500.000đ.

      Bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn bột mỳ CJ-SC B1(gọi tắt là Công ty B1) trình bày:

      Công  ty B1và  Công  ty TX có  ký  kết  hợp  đồng  dịch  vụ  nấu  ăn  số 01/2015/HĐNA-JC-SCvà Công ty B1cóQuyết định ngừng hợp đồng với Công ty TX kể từ ngày 31-12-2016 như nguyên đơn trình bày.

       Lý do ngừng hợp đồng vì Công ty TX đã không thực hiện đúng hợp đồng đã ký, cụ thể là không cung cấp bữa ăn đủ chất lượng cho nhân viên, không cung cấp tốt dịch vụ cho nhân viên, không bố trí đủ số lượng nhân viên theo thỏa thuận, không cung cấp hồ sơ nhân viên, không thông báo cho Công ty B1khi có sự thay đổi về nhân sự nấu bếp.

       Trước khi chấm dứt hợp đồng,Công  ty B1cũng đã báo trước cho  Công  ty TX30 ngày theo đúng thỏa thuận.

      Ngoài ra, ngày 31-10-2016, Công ty B1 ban hành quyết định số 01-16/CJSC-DC xử phạt Công  ty TX 5.000.000đồng do không cung cấp đủ phần ăn, không có đủ nhân lực dọn dẹp bàn ăn gây mất vệ sinh, nhưng Công  ty TX không  thực hiện quyết  định.

      Như vậy, việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn đối với Công ty TX là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, Công ty B1 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TX.

      Bản án số 02/2018/KDTM-ST  ngày  18-01- 2018  của Tòa án nhân dân huyện T đã tuyên xử:

      Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công  ty  TX đối với Công ty B về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 01/2015/HĐNA-CJ-SC ngày 01/4/2015 .

      Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, lệ phí, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

      Kháng cáo:Ngày 01-02-2018, nguyên đơn là Công ty TX kháng cáo Bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm:Sửa bản án sơ thẩm theo hướng Công ty B đơn  phương  chấm  dứt  hợp  đồng  số  01/2015/HĐNA-CJ-SC  ngày  01/4/2015  trái pháp luật và phảibồi thường các khoản về tổn thất đầu tư, lợi nhuận, chi phí di dời với tổng số tiền là 427.500.000đ.

      Tại phiên tòa phúc thẩm:

  • Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiệnvàyêu cầu kháng cáo; Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phát biểu ý kiến:Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp hành đúng quy định pháp luật. Các đương sự có mặt tại phiên tòa phúc thẩm chấp hành tốt quyền và nghĩa vụ tố tụng.

      Về nội dung vụ án:Hợp đồng của Công  ty B1vàCông  ty TX được ký kết đúng pháp luật. Công  ty TX có vi phạm một số cam kết trong hợp đồng về số lượng người phục vụ tại bếp ăn, có những ngày suất ăn không đảm bảo yêu cầu, Công ty B1 đãcó quyết định xử phạt Công ty TX về các vi phạm.Như vậy, theo thỏa thuận tại Điều 3 của hợp đồng thì Công ty B1chấm dứt hợp đồng với Công ty TX là đúng luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty TX, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiêncứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

      Về tố tụng:Đơn kháng cáo của Công ty TXtrong thời hạn luật định, đã thực hiện việc nộp tiền tạm ứng đúng quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

      Xét kháng cáo của nguyên đơn:

     [1] Việc ký kết hợp đồng dịch vụ nấu ăn đúng như các bên đã trình bày. Hợp đồng này là hợp đồng dịch vụ cả hai bên đều có mục đích lợi nhuận, việc Công ty B1đảm bảo suất ăn cho nhân viên của mình là hoạt động không trực tiếp sinh lợi nhuận nhưng là yếu tố phục vụ, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nên hợp đồng được điều chỉnh theo quy định của Luật thương mại. Hợp đồng được các bên thừa nhận, ký trên cơ sở tự nguyện,nội dung hợp đồng phù hợp quy định pháp luật,không trái đạo đức xã hộihay vi phạm điều cấm, nên buộc các tham gia ký kết phảicó trách nhiệm tuân thủ theo hợp đồng.

    [2] Nội dung hợp đồng thể hiện công việc Công ty TX phải thực hiện được nêu tại điều 1 của hợp đồng, trong đó có quy định về thực đơn, định lượng bữa ăn, thời gian phục vụ, trách hiệm của Công ty TX phải sắp xếp 05 nhân viên phục vụ có đủ trình độđể phục vụ suất ăn cho nhân viên Công ty B1.

    [3] Hợp đồng có quy định tại Điều 3 về điều kiện chấm dứt hợp đồng, cụ thể: Công  ty B1được chấm dứt hợp đồng nếu không hài lòng về chất lượng phục vụ của Công ty TX. Tại phiên tòa phúc thẩm cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận đã xảy ra việc do Công ty B1phàn nàn về dịch vụ nấu ăn nên Công ty TXđồng ý để Công  ty B1ra quyết định xử phạt như nêu trên để Công  ty TXcó cơ sở nhắc nhở nhân viên nấu ăn. Sau đó từ ngày 01-11-2016 đến ngày 30-11-2016 vẫn thể hiện trong sổ lưu mẫu thức ăn có y tế của Công ty B1và đầu bếp của Công ty TXxác nhận là có 15 bữa ăn không đạt theo yêu cầu. Do hai bên không đưa ra chuẩn mực nào để xác định mức độ không hài lòng, cho nên điều này hoàn toàn phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của bên hưởng dịch vụ là Công ty B1và trên thực tế đã xảy ra như nêu trên.

    [4] Cũng tại Điều 3 của hợp đồng còn một điều kiện chấm dứt hợp đồng nữa là nếu một trong hai bên muốn chấm dứt hợp đồng thì phải thông báo cho bên kia trước 30 ngày. Có nghĩa là bên nào cũng được chấm dứt hợp đồng không cần lý do, chỉ cần đảm bảothời hạn báo trước. Công ty B1muốn ngưng hợp đồng nên ngày 30-11-2016đã ban hành Quyết định số 03-16/CJSC-DC,có nội dung ngừng hợp đồng số 01 với Công  ty TX kể từ ngày 31-12-2016(BL157, tập 13). Công  ty TX thừa nhận đã được thông báo trước 30 ngày.

    [5] Ngoài  ra,  Công  ty B1còn xác định và được Công  ty TXthừa nhận là trong khoảng thời gian từ tháng 7/2016 đến tháng 11/2016,Công ty TXvi phạm Điều 1 của hợp đồng, chỉ sắp xếp 03 nhân viên phục vụ suất ăn chứ không đủ 05 nhân viên như cam kết.

    [6] Như vậy, việc Công  ty B1đơn phương chấm dứt hợp đồng là phù hợp theo  thỏa  thuận  trong  hợp  đồng,  đúng  quy  định  pháp  luật nên  không phải bồi thường thiệt hại cho Công ty TX. Về các thiết bị phục vụ nấu ăn của Công ty TX, do hợp đồng không buộc Công ty B1 phải bồi thường các thiết bị này nếu chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nên cũng không có căn cứ buộc bồi thường và các thiết bị này Công ty TX đã tháo dỡ chuyển đi nơi khác.

    [7] Do đó, Công  ty TX khởi kiện yêu cầu Công ty B1 phải bồi thường các khoản về tổn thất đầu tư, lợi nhuận, chi phí di dời với tổng số tiền 427.500.000đ là không phù hợp với hợp đồng đã ký, nênTòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng quy định pháp luật. Tại Tòa án cấp phúc  thẩm, nguyên đơn không có tài liệu,chứng cứ nào mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

    [8] Án phí phúc thẩm: Công  ty  TX phải chịu 2.000.000 đồng án phí phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí.Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

    Căn cứ vào khoản1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 74, 75,78, 303, 312 Luật  thương  mại;  Điều  26, khoản  1  Điều 29 Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14  ngày  30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, tuyên xử:

    Không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn là Công  ty  TX: Giữ nguyên bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2018/KDTM-ST ngày 18-01-2018 của Tòa án nhân dân huyện T, như sau:

  1.  Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TX đối với Công ty B về việc: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 01/2015/HĐNA-CJ-SC ngày 01-4-2015 .
  2.  Án phí kinh doanh thương mại

           2.1. Sơ thẩm: công ty TX phải chịu 21.100.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 10.800.000 đồng theo biên lai thu số 0003109 ngày 05-01-2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Công ty TX còn phải nộp thêm 10.300.000 đồng ( Mười triệu ba trăm ngàn đồng)

          2.2: Phúc thẩm: Công ty TX phải chịu 2.000.000 đồng( hai triệu đồng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 2.000.000 đồng theo biên lai thu số 0000627 ngày 02-02-2018 của Chi cục thi hành án huyện T. Công ty TX đã nộp xong.

Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án( 21-6-2017)

Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao

 

Đang xử lý...

.